=> Cung Tử Tức rất quan trọng nhất là đối với đàn bà có sứ mạng làm mẹ hơn là làm vợ. Nếu đàn bà mà được cả hai cung Phu-Quân và Tử-Tức cùng tốt cả, thì đó là thiên đường dương thế.
Cung Mệnh, Thân rất tốt, chắc chắn sẽ được phú qúy, nhưng chẳng may cung Tử-Tức lại mờ ám xấu xa, thì về hậu vận sẽ sống cô đơn, khó mà hưởng được hạnh phúc. Trái lại, nếu cung Mạng và Thân xấu nhưng cung Tử-Tức rất đẹp, tất nhiên về già sẽ được nhờ con. Đó là tiền hung nhi hậu kiếp. Thà như vậy, còn hơn là được Mạng, Thân tốt mà cung Tử-Tức lại tối tăm hay bị bội bạc.
Xin nói thêm về sự truyền tinh cho rõ. Sự truyền tinh là xem lá số của mình, ở cung Tử-Tức, nếu có nhiều sao tốt, sáng sủa, miếu địa và có những trung tinh đắc cách, thì nhìn lá số đứa con nào Mạng, Thân của nó có những cách ấy, đó là đứa con truyền tinh sẽ nhờ cậy được.
Nhưng coi chừng !... nếu cung Tử-Tức mà có các sao Không Kiếp Kình Đà Kị …, mà đứa con nào ở Thân Mạng lại có những Sát tinh hay bại tinh ấy, thì đó lại là không phải là con truyền tinh mà là đứa con làm điêu đứng đời mình.
Như vậy :
– Truyền tinh là ở những sao tốt, những cách tốt cả về trung tinh, có ở cung Tử-Tức người cha và xuất hiện ở cung Mệnh, Thân người con.
– Nếu lại là sao xấu, cách xấu thì lại là đứa con báo hại cha mẹ. Ví dụ về già mà cha mẹ còn phải cấp dưỡng cho con, cũng có khi là có sự giận hờn, ghét bỏ nhau …
Cách hiếm muộn qua các sao:
Các chính tinh ở cung Tử:
Vũ Khúc: dù đắc địa hay hãm địa, Vũ Khúc chỉ sự cô độc, ít oi. ở thế hãm địa, con sinh ra càng khó nuôi và tốn kém lúc nuôi dưỡng. ý nghĩa hiếm muộn càng rõ rệt hơn nếu Vũ nằm ở cung Tử của nữ số. Đi với Thất Sát thì càng ít con hơn, khả dĩ tuyệt tự. Nếu có thì còn cũng có tật hoặc hoang đàng, cha mẹ không nhờ vả được. Dù đi với Thiên Tướng cũng còn hiếm con. Đi với Phá Quân may ra được hai con nhưng không thể có con trai.
Thất Sát ở Thìn, Tuất: hiếm con, con lại mang tật bệnh hay hoang đàng. Nếu ở Tý, Ngọ thì nhiều lắm là được hai người, có thể có một trai. Đi với Liêm Trinh, ý nghĩa tương tự.
Tham Lang ở Tý, Ngọ: con hữu sinh vô dưỡng và rất ít, đặc biệt là không thể có con trai. Ngoài ra, con lớn lên thường bất mục, khó dạy.
Phá Quân: hiếm con, hữu sinh vô dưỡng, lại hình khắc với cha mẹ dù Phá tọa thủ ở cung nào cũng vậy. Đặc biệt đi với Liêm Trinh, ý nghĩa cũng tương tự.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi: hiếm con và khó nuôi con, may mắn thì được một con, ở Tỵ Hợi thì có hai nhưng sau này tha phương cầu thực, hoang đàng. Đồng cung với Nguyệt ở Ngọ cũng hiếm, nếu là nữ số thì sự hiếm muộn này bắt nguồn từ khí huyết suy nhược.
Họa cho con cái:
Sự hiện diện của Song Hao cho thấy phải tốn kém nhiều lúc dưỡng thai và lúc dưỡng nhi cũng như lúc sinh nở.
Thai, Lưu Hà: chỉ sản tai, tức là tai họa lúc sinh sản, thể hiện dưới hình thái mẹ chết lúc sinh, thường là do băng huyết hoặc lúc sinh bị máu ra nhiều vì Lưu Hà chỉ máu loãng xuất huyết.
Thai, Tuần, Triệt: không kể trường hợp phá thai, bộ sao này có nghĩa là bào thai yểu tử, nhất là khi gặp cả Tuần lẫn Triệt.
Thai, Quan Đới: Quan Đới chỉ cái chết bất đắc, không tự nhiên. Đi với Thai thì dễ hư thai hoặc hài nhi sơ sinh chết bất thần. Gặp thêm sao xấu, nhất là Không Kiếp, có thể báo hiệu cái chết của mẹ lẫn con.
Tình trạng con hư đốn:
Nếu con hư vì sắc dục, trinh tiết thì tại cung Tử sẽ có những sao về họa sắc dục, trinh tiết, giang hồ. Nếu con hư vì cờ bạc, hút sách, trộm cướp thì cung Tử có những sao hao tán tài sản vì cờ bạc, hút sách, trộm cướp ... Nếu con bị hình tù thì những cách hình tụng nói trong họa tụng ngục xuất hiện tại cung Tử. Trường hợp chết dữ thì đã có sao họa cho sinh mệnh cơ thể kể trên. Ngoài ra,
Tham ở Thìn, Tuất hay Thất Sát: cung Tử có Tham Lang hay Thất Sát ở Thìn, Tuất thì có con bất mục, bất hiếu, khó dạy, ngỗ ngược.
Lương, Đồng ở Tỵ, Hợi: con chơi bời, lãng tử, nam thì kết đảng gian phi, nữ thì dâm đãng hoang phí. Có thêm Mã thì thường bỏ nhà đi bụi đời.
Kình, Đà, Không, Kiếp hãm địa: chỉ con cái du đãng, bất lương, mất dạy.
Binh, Hình, Kiếp, Kỵ: đồng nghĩa như trên nhưng nặng nề, xấu xa hơn. Đó là những gian phi hiểu theo nhiều nghĩa côn đồ, trộm cướp, hiếp dâm, phiến loạn, vào tù ra khám nhiều lần. Thông thường, đây là cướp có tổ chức, có nhiều bè đảng, lâu la giúp đỡ.
Đẩu Quân và nhiều sao xấu: con hoang phí, xài phá hết của cha mẹ.
Đào hay Riêu: con chơi bời, đĩ điếm, lẳng lơ, hoa nguyệt. Nếu có sao Thai thì con gái có chửa hoang, bỏ nhà theo trai.
Tình trạng con bất hòa:
Cự Môn: dù đắc hay hãm địa, chỉ sự nghi kỵ, đố kỵ, ganh ghét, nói xấu, chỉ trích giữa con cái hoặc giữa con dòng lớn và con dòng nhỏ.
Phục Binh hay Hóa Kỵ: ngoài ý nghĩa của Cự Môn, Binh Kỵ còn chỉ sự toa rập sang đoạt, ám hại lẫn nhau, phá hoại nhau.
Thiên Hình, Quan Phù, Quan Phủ: con cái có thể kiện tụng nhau, hiềm khích nhau, coi nhau như người dưng nước lã.